Nương theo hạnh nghuyện của Tổ sư Huệ Đăng để phát huy năng lực của mình

Trước nhất, chúng ta biết về tiểu sử của Tổ Huệ Đăng. Ngài xuất thân từ Tây Sơn, Bình Định. Ngài là nhà cách mạng, nhà trí thức, sau đó trở thành Tổ sư đắc đạo. Trước khi xuất gia, ngài là người trí thức có hiểu biết rộng, có tinh thần yêu nước và tham gia các phong trào tranh đấu giành độc lập cho Tổ quốc. Nhưng phong trào khởi nghĩa không thành công, nên ngài lưu lạc vào miền Nam. 

Xưa kia, huyện Đất Đỏ này là vùng hoang vắng, ngài đã ẩn cư ở khu rừng này và nghe được tiếng chuông chùa của Tổ Hải Hội. Tiếng chuông chùa ở đâu cũng có, nhưng tiếng chuông chùa của Tổ Hải Hội đã gắn liền sâu xa với Tổ Huệ Đăng là điều chúng ta phải suy nghĩ. 

Tu hành mà không nói được bằng trái tim thì biết cách đạo còn xa, tức phải cảm tâm với Tổ, với thầy, nương theo đạo lực của thầy tổ giúp chúng ta tiến trên đường đạo

Có chùa hoang vắng, không người tới. Có chùa quần chúng tập hợp, cúng dường. Và có chùa, người tới để tu hành, tìm hiểu giáo pháp một cách miên mật. Chùa hoang vắng, không người tới là chùa có xác không hồn, chúng ta không nên xây dựng. Ngược lại, chùa không có xác, nghĩa là chùa chưa thành hình, nhưng từ từ ngôi chùa vật chất hiện ra.

Thật vậy, tôi chiêm bái chùa Nam Hoa ở Trung Quốc, nghe Thiền sư kể lại rằng trước khi Lục tổ Huệ Năng tới đây, năm trăm năm trước đã có một phạm tăng từ Ấn Độ đi qua đây, cho biết nơi này năm trăm năm sau sẽ có ngôi đại già-lam và một vị Thánh tăng trụ ở đây. Quả đúng như vậy, năm trăm năm sau, Tổ Huệ Năng đắc đạo, xây chùa Nam Hoa và từ đây mở ra các tông phái của Thiền tông. Chùa chúng ta cũng thuộc gốc Tổ Huệ Năng.

Vị phạm tăng đắc đạo thấy xa đến năm trăm năm là điều mà chúng ta phải học. Phật nói người có căn lành thấy cảnh hoang vắng, nhưng ở đó tu hành quyết tâm cao, sẽ gặt hái kết quả tốt đẹp.

Chưa có chùa, nhưng thấy có chùa. Theo hướng tâm linh này, các vị Thiền Tăng ẩn tu nhiều hơn là quyên góp xây chùa. Tổ Huệ Đăng của chúng ta cũng vậy. Tổ Hải Hội đắc đạo, nên thấy ngài Huệ Đăng tuy chưa xuất gia, nhưng Tổ nói đây là ngọn đèn trí tuệ của Phật, nên đặt cho Ngài pháp danh Huệ Đăng. Nhờ căn lành có sẵn, Tổ Huệ Đăng gặp Tổ Hải Hội thì căn lành này phát lên và Tổ Hải Hội cũng thấy căn lành của Ngài Huệ Đăng, nên Tổ đã huyền ký cho ngài. Ngài Huệ Đăng nhận bộ kinhPháp hoa của Tổ Hải Hội trao cho, rồi đi vào hang ông Hổ để ẩn tu và hành trì kinh này.

Buổi tối, ông Hổ đi kiếm ăn, sáng trở về, thấy Tổ Huệ Đăng ngồi trong hang. Nếu không phải người thật tu, thấy ông Hổ chắc chắn phải khiếp vía. Tổ bình thản nói với ông Hổ bằng ngôn ngữ của tâm, điều này cũng là bài học cho chúng ta là nên nói với nhau bằng trái tim, không nói bằng ngôn ngữ tay chân.

Nói với nhau bằng trái tim là hiểu nhau. Khi tâm hai người thanh tịnh thì hiểu nhau được. Điển hình như Xá Lợi Phất là nhà hùng biện bậc nhất trông thấy Mã Thắng Tỳ-kheo là Thánh La-hán, tuy Mã Thắng không nói gì, nhưng Xá Lợi Phất liền phát tâm và đắc Sơ thiền. Trên bước đường tu, điểm này quan trọng.

Nếu người tu không có căn lành, không cảm tâm, không có niềm tin, thì con đường họ đi chắc chắn không bao giờ tới đích. Khi căn lành chúng ta phát, tâm chúng ta trở thành thanh tịnh, không nghe ngôn ngữ nữa, mà nghe bằng tâm là tha tâm thông.

Hai vị Thánh tăng lặng thinh, nhưng họ hiểu nhau, thậm chí một vị ở đây, một người ở Nhật, nhưng hiểu được nhau là nói với nhau bằng trái tim. Trong lịch sử có câu chuyện rất hay. Thánh tăng Việt Nam là Phật Triết gặp Bồ-tát Hạnh Cơ của Nhật. Vào thời đó, Thánh Vũ Thiên hoàng xây tượng Tỳ Lô Giá Na bằng đồng cao 16m. Ông ra lệnh gom hết đồng trong nước để đúc tượng này. Con mắt của Phật bề ngang 2m. Mặt của Phật bề ngang 5m. Bàn tay của Phật rộng đến 16 người ngồi được. Nhưng người ta chỉ đúc tượng đến cổ, đầu không đúc được, vì đổ đồng lên thì bị rã xuống.

Trong thế bế tắc đó, lúc bấy giờ, ngài Phật Triết ở Giao Châu (là Việt Nam) đi bè tre sang Nhật. Ngày nay đi bằng tàu đến đảo Trường Sa đã khó. Khi đến bờ biển Nhật, đã có Bồ-tát Hạnh Cơ đứng chờ. Hai vị này nói với nhau bằng trái tim.

Tu hành mà không nói được bằng trái tim thì biết cách đạo còn xa, tức phải cảm tâm với Tổ, với thầy, nương theo đạo lực của thầy tổ giúp chúng ta tiến trên đường đạo.

Trở lại vấn đề chùa có xác không có hồn. Chúng ta xây dựng chùa, phải xây dựng hồn trước, thì chùa mới thành hình đúng nghĩa. Nhớ lại tôi đi tu, phải đến sáu mươi năm sau, mới xây chùa Huê Nghiêm, nhưng không nghĩ xây chùa để ở, vì lúc đó tôi 70 tuổi rồi. Thực lòng mà nói, xây chùa để ở, coi chừng không phải đạo.

Các vị cao tăng, Thánh tăng không nghĩ xây chùa ở, nhưng xây cho bá tánh, cho thế hệ tương lai có nơi tu học. Chúng ta làm gì cũng nghĩ đến tương lai của Phật pháp được tồn tại. Thấy Phật pháp phát triển, chúng ta vui.

Khi Tổ Huệ Đăng ẩn tu trong núi, việc đầu tiên mà Ngài chứng nghiệm là giữa ngài và ông Hổ đã cảm thông với nhau qua tâm. Thật vậy, Ngài nói với ông Hổ cái gì, thì không ai nghe; nhưng về sau, các thầy kể là Tổ đã nói cho họ nghe. Tổ nói với ông Hổ rằng đây là vùng rừng núi của ngài, xin ngài cho tôi mượn cái hang này để tu một thời gian. Ông Hổ gật đầu, bỏ đi chỗ khác.

Tổ ngồi trong hang tu, không có thức ăn, không có đàn việt hiến cúng, nhưng ngài quyết tâm tu, quên đói khát và ngài đã ngộ đạo. Ngày nay, theo dấu chân Tổ, chúng ta tu, nếu còn nghĩ đến cơm áo, chỗ ở, không bao giờ chứng đạo. Miệt mài tu, chúng ta quên ăn, có thì ăn, không có cũng không sao.

Tổ làm bài kệ nói lên sở tu, sở ngộ của ngài như sau:

Xem thêm: https://www.nhacphatgiao.com/phat-phap/

Rate this post

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Powered by caychumngayvn.com